Hoàn thiện và tích cực thực hiện các chính sách, pháp luật về quản lý, bảo vệ loài nguy cấp, quý, hiếm



Việt Nam được biết đến như là một trong số các trung tâm đa dạng sinh học của thế giới, là nơi sinh sống và phát triển của nhiều loài đặc hữu, có giá trị cao cả về khoa học, kinh tế, y học, mỹ học và văn hóa. Tuy nhiên, đa dạng về loài của Việt Nam đang bị đe dọa nghiêm trọng, một số loài đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng.

Nhằm ngăn chặn nguy cơ đe dọa tuyệt chủng các loài nguy cấp, quý, hiếm, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã phối hợp với các Bộ ngành liên quan hoàn thiện và tích cực triển khai các chính sách, văn bản quy phạm pháp luật để quản lý, bảo vệ loài nguy cấp, quý, hiếm.

Ảnh minh họa

Chính sách, văn bản về bảo vệ loài nguy cấp, quý, hiếm được hoàn thiện

Luật Đa dạng sinh học được Quốc hội thông qua ngày 13/11/2008 và có hiệu lực ngày 01/7/2009, trong đó giao Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về đa dạng sinh học. Luật có Chương IV về Bảo tồn và phát triển bền vững các loài sinh vật, đặc biệt là các loài thuộc Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ. Nhằm hướng dẫn, triển khai thực hiện Luật Đa dạng sinh học, Bộ TN&MT đã phối hợp với các Bộ, ngành liên quan xây dựng và trình Chính phủ ban hành Nghị định số 65/2010/NĐ-CP ngày 11/6/2010 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đa dạng sinh học; trong đó có từ Điều 12 đến Điều 16 hướng dẫn một số nội dung liên quan đến tiêu chí xác định loài, chế độ quản lý, bảo vệ, nuôi, trồng, cứu hộ loài thuộc Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ.

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự số 37/2009/QH12 cũng có Điều 190 quy định về tội vi phạm các quy định về bảo vệ động vật thuộc Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ.

Để thực hiện các nội dung của Luật Đa dạng sinh học, phù hợp với Điều 190 của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự, cũng như giải quyết các vấn đề cấp bách trong thực tế quản lý, bảo tồn và phát triển bền vững các loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ, Bộ TN&MT đã phối hợp với các Bộ, ngành xây dựng và trình Chính phủ ban hành Nghị định số 160/2013/NĐ-CP về tiêu chí xác định loài và chế độ quản lý loài thuộc Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ. Nghị định đã tạo cơ sở pháp lý đồng bộ, đầy đủ nhằm bảo tồn, phát triển và sử dụng bền vững tài nguyên đa dạng sinh học quốc gia, hỗ trợ thực hiện các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia về bảo tồn các loài nguy cấp, quý, hiếm. Nghị định số 160/2013/NĐ-CP tập trung vào các quy định về khai thác, vận chuyển, tặng cho, xuất khẩu, nhập khẩu động vật, thực vật hoang dã nguy cấp, quý, hiếm, nguồn gen cây trồng, vật nuôi quý, hiếm; nuôi sinh sản, sinh truỏng, cứu hộ, trồng cấy nhân tạo loài nguy cấp, quý, hiếm. Riêng về xuất khẩu, nhập khẩu mẫu vật của loài động vật thuộc Danh mục loài ưu tiên bảo vệ, từ năm 2014 đến nay, Bộ TN&MT đã có ý kiến bằng văn bản đối với 09 trường hợp. Qua đó, Cơ quan Quản lý CITES Việt Nam đã cấp giấy phép nhập khẩu mẫu vật các loài Hổ, Bò rừng và Rái cá vuốt bé, xuất khẩu mẫu vật các loài Voọc Hà Tĩnh, Voọc chà vá chân đỏ, Voọc chà vá chân xám, Vượn đen má trắng, Voọc má trắng, Voọc mông trắng và Gấu.

Bên cạnh đó, để tăng cường công tác xử lý các hành vi vi phạm đối với các loài động vật, thực vật hoang dã, Chính phủ cũng đã ban hành: Nghị định số 157/2013/NĐ-CP về xử phạt hành chính trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản; Nghị định số 103/2013/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thủy sản; và Nghị định số 179/2013/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Hàng năm, Bộ TN&MT tổ chức các đợt thanh tra, kiểm tra về việc chấp hành các quy định của pháp luật về bảo tồn và phát triển bền vững đa dạng sinh học tại các Vườn quốc gia, Khu bảo tồn, Trung tâm cứu hộ, Cơ sở bảo tồn đa dạng sinh học. Từ năm 2014 đến năm 2016 đã tiến hành kiểm tra 71 cơ sở. Đồng thời, tích cực, chủ động trong xử lý các vấn đề đột xuất liên quan đến công tác quản lý, bảo tồn các loài nguy cấp, quý, hiếm.

Đồng thời, nhiều văn bản chính sách cũng đã được xây dựng nhằm bảo tồn đa dạng sinh học, bảo tồn các loài nguy cấp, quý, hiếm như Quyết định số 1250/QĐ-TTg ngày 31/7/2013 ban hành Chiến lược quốc gia về bảo tồn đa dạng sinh học; Quyết định số 45/QĐ-TTg ngày 08/01/2014 phê duyệt Quy hoạch tổng thể bảo tồn đa dạng sinh học cả nước đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030, với mục tiêu các hệ sinh thái tự nhiên quan trọng, loài, nguồn gen nguy cấp, quý, hiếm được bảo tồn và sử dụng bền vững nhằm góp phần phát triển đất nước theo định hướng nền kinh tế xanh, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu; Quyết định số 218/QĐ-TTg ngày 07/02/2014 phê duyệt Chiến lược quản lý hệ thống rừng đặc dụng, khu bảo tồn biển, khu bảo tồn vùng nước nội địa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn năm 2030 nhằm kiểm soát, bảo tồn và phát triển các loài động, thực vật hoang dã nguy cấp, quý, hiếm trong khu rừng đặc dụng, khu bảo tồn biển và khu bảo tồn vùng nước nội địa. Để hướng dẫn thực hiện Chiến lược quốc gia về đa dạng sinh học và Quy hoạch tổng thể bảo tồn đa dạng sinh học trên cả nước, Bộ TN&MT cũng đã ban hành các văn bản hướng dẫn địa phương xây dựng quy hoạch, kế hoạch hành động đa dạng sinh học của địa phương.

Ngoài ra, nhằm hoàn thiện thể chế về quản lý địa phương về đa dạng sinh học, Bộ TN&MT đã phối hợp với Bộ Nội vụ ban hành Thông tư liên tịch số 50/2014/TTLT-BTNMT-BNV ngày 28/08/2014 hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở TN&MT thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Phòng TN&MT thuộc UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Đến nay, các tỉnh đã và đang hình thành bộ phận quản lý đa dạng sinh học trong Sở TN&MT.

Hiện nay, Bộ TN&MT đang phối hợp với các Bộ, ngành, tổ chức liên quan thúc đẩy xây dựng và triển khai thực hiện các chương trình bảo tồn loài nguy cấp, quý, hiếm thuộc Danh mục loài nguy cấp quý hiếm được ưu tiên bảo vệ như Chương trình quốc gia về bảo tồn hổ giai đoạn năm 2014-2022, Kế hoạch hành động khẩn cấp đến năm 2020 để bảo tồn voi ở Việt Nam. Đồng thời, đang phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xây dựng các Chương trình quốc gia về bảo tồn các loài rùa và linh trưởng nguy cấp và dự kiến trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt vào năm 2017.

Về điều tra, đánh giá, xây dựng cơ sở dữ liệu quản lý loài nguy cấp, quý, hiếm, Bộ TN&MT đã tiến hành xây dựng cơ sở dữ liệu đa dạng sinh học quốc gia và đang vận hành thí điểm, từng bước hoàn thiện. Đây là cơ sở quan trọng để Bộ TN&MT theo dõi hiện trạng loài, tình hình quản lý và định kỳ cập nhật, bổ sung và trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, ban hành Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ. Ngoài ra, Bộ cũng đã thí điểm cơ chế chia sẻ thông tin liên ngành về kiểm soát buôn bán, tiêu thụ loài nguy cấp bao gồm Hải quan, Cảnh sát môi trường, Kiểm lâm…; xây dựng hướng dẫn địa phương điều tra, đánh giá và báo cáo đa dạng sinh học; ban hành hướng dẫn kỹ thuật xây dựng báo cáo về đa dạng sinh học của khu bảo tồn cấp tỉnh, quốc gia; và hướng dẫn kỹ thuật điều tra cơ bản về đa dạng sinh học cho 07 nhóm loài;…

 

Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị

Nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và tăng cường bảo vệ các loài nguy cấp, quý, hiếm, Bộ TN&MT đề xuất một số giải pháp, kiến nghị như

Một là, cần rà soát, sửa đổi đồng bộ các Luật Đa dạng sinh học, Luật Bảo vệ và Phát triển rừng, Luật Thủy sản nhằm đảm bảo tính phù hợp với thực tế quản lý, tránh chồng chéo.

Hai là, củng cố, kiện toàn hệ thống quản lý và tăng cường trách nhiệm của các ngành, địa phương về quản lý đa dạng sinh học. Phân định rõ ràng chức năng chính về phát triển và bảo tồn; giao cụ thể trách nhiệm chủ trì, phối hợp quản lý bảo tồn da dạng sinh học giữa các Bộ, ngành nhằm khắc phục sự bất cập và chồng chéo trong quản lý loài và đa dạng sinh học hiện nay. Tăng cường quản lý nhà nước về bảo tồn đa dạng sinh học ở cấp tỉnh như thành lập bộ phận chuyên môn về đa dạng sinh học thuộc Chi cục Bảo vệ môi trường, Sở TN&MT với chức năng, nhiệm vụ bảo tồn đa dạng sinh học hoặc có nhân sự chuyên trách và hệ thống liên ngành hỗ trợ thực hiện công tác bảo tồn.

Ba là, xem xét, bố trí nguồn kinh phí phù hợp cho công tác bảo tồn đa dạng sinh học từ các nguồn ngân sách nhà nước cho Trung ương đến địa phương, đặc biệt đối với các dự án điều tra cơ bản, quản lý loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ tại địa phương.

Bốn là, xây dựng, phê duyệt và tổ chức thực hiện chương trình điều tra cơ bản đa dạng sinh học phục vụ bảo tồn và phát triển kinh tế xã hội và ứng phó với biến đổi khí hậu.

Năm là, tiếp tục đẩy mạnh truyền thông, nâng cao nhận thức cho các đối tượng, tầng lớp trong nhân dân về bảo tồn các loài nguy cấp, quý, hiếm và giá trị của đa dạng sinh học.

Nguồn: CTTĐT

Tin khác đã đăng